Cách tô mì Spaghetti Châu Âu phát triển và đa phương hóa
Sự sắp xếp hài hòa giữa phương Tây và phương Tây vào cuối những năm 1980 có thể được coi là “vòng tròn đồng tâm”. Vòng trong là EU. Vòng ngoài bao gồm các quốc gia thuộc Khu vực Thương mại Tự do Châu Âu (European Free Trade Association - EFTA) — Thụy Sĩ, Na Uy, Liechtenstein và Iceland — và ba quốc gia EFTA đã gia nhập EU vào năm 1994 — Áo, Phần Lan và Thụy Điển.
Cách tô mì Spaghetti Châu Âu phát triển và đa phương hóa
Các thỏa thuận thương mại ở châu Âu, vốn đã đơn giản và hiệu quả từ giữa những năm 1970, đã rơi vào tình trạng hỗn loạn vào những năm 1990; “tô mì spaghetti” của các FTA đã nảy sinh. Khi giải thích các thỏa thuận này, sẽ hữu ích nếu sắp xếp chúng thành ba gói. FTA Tây-Tây, Đông-Tây và Đông-Đông.
Tạo ra tô mì spaghetti kiểu Âu
Sự sắp xếp hài hòa giữa phương Tây và phương Tây vào cuối những năm 1980 có thể được coi là “vòng tròn đồng tâm”. Vòng trong là EU. Vòng ngoài bao gồm các quốc gia thuộc Khu vực Thương mại Tự do Châu Âu (European Free Trade Association – EFTA) — Thụy Sĩ, Na Uy, Liechtenstein và Iceland — và ba quốc gia EFTA đã gia nhập EU vào năm 1994 — Áo, Phần Lan và Thụy Điển. Vòng trong được điều chỉnh bởi các Hiệp ước Rome (Treaties of Rome), tạo ra sự hội nhập rất sâu sắc giữa các thành viên EU – hội nhập theo chiều sâu đã được tăng cường đáng kể khi hoàn thành Thị trường chung (Single Market) từ năm 1986 đến năm 1992. Thương mại giữa các thành viên EFTA được miễn thuế do văn kiện sáng lập của EFTA, Công ước Stockholm. Thương mại giữa EU và từng quốc gia EFTA được miễn thuế nhờ các FTA song phương mà EU và EFTA đã ký vào giữa những năm 1970.
Sự tan rã của Liên Xô và giải thể quyền kiểm soát của nó đối với các nước Trung và Đông Âu (Central and Eastern European countries – CEEC) vào cuối những năm 1980 là những gì đã kích hoạt tô mì spaghetti. EU đã phản ứng nhanh chóng với các sự kiện địa chính trị bằng cách cung cấp viện trợ khẩn cấp và các khoản vay cho các nền dân chủ non trẻ. Tuy nhiên, CEEC còn muốn nhiều hơn thế. Tất cả đều tuyên bố muốn gia nhập EU càng sớm càng tốt. Ngược lại, EU ban đầu tỏ ra miễn cưỡng.
Thay vì thừa nhận sự quan tâm của các CEEC đối với tư cách thành viên, EU đã ký Hiệp hội của Liên minh Châu Âu. Các Hiệp định của Châu Âu với Ba Lan, Hungary và Tiệp Khắc năm 1991. Các Hiệp định Châu Âu với các thành viên CEEC khác được tiếp nối, và đến năm 1994, EU đã có các thỏa thuận như vậy với Romania, Bulgaria, Albania, Estonia, Latvia và Lithuania. Do sự mâu thuẫn sâu sắc mà nhiều thành viên EU có liên quan đến tư cách thành viên của CEEC, việc Hiệp định châu Âu có hiệu lực về cơ bản đã bị trì hoãn đáng kể. Ví dụ, các Hiệp định Châu Âu ký với Hungary và Ba Lan vào tháng 12 năm 1991 chỉ có hiệu lực vào tháng 2 năm 1994.
EFTA vào thời điểm đó song song với các động thái của EU — để tránh phân biệt đối xử đối với các nhà xuất khẩu của họ. Nghĩa là, các thành viên EFTA đã ký các thỏa thuận song phương của riêng họ với từng thành viên CEEC ngay sau khi các thỏa thuận song phương của EU được hoàn thành. Các hiệp định này khá giống với các Hiệp định Châu Âu về hội nhập kinh tế.
Khía cạnh thứ ba của tô mì spaghetti những năm 1990 là các giao dịch Đông-Đông. Một số CEEC đã ký kết các thỏa thuận thương mại với nhau, trong đó quan trọng nhất là Hiệp định Thương mại Tự do Trung Âu năm 1991.
Nền kinh tế chính trị của ROO và ROCs
Vị thế bá chủ của EU có nghĩa là các bên song phương EU-CEEC đều có các quy tắc xuất xứ giống nhau và tất cả đều được áp đặt song phương. Mỗi hiệp định EFTA cũng có quy tắc xuất xứ riêng và tích lũy song phương tương tự, nhưng không giống với quy tắc xuất xứ của EU (rules of origin – ROO). ROO cho các hiệp định Đông-Đông cũng khác nhau. Do đó, những biến dạng tạo ra bởi các ưu đãi đã được phóng đại bởi ROO và các quy tắc tích lũy song phương (rules of cumulation – ROC). Mô hình tô mì spaghetti này không xuất hiện do nhầm lẫn.
Các quy tắc xuất xứ và/hoặc các quy tắc loại trừ và quy tắc tích lũy ảnh hưởng đến vận động hành lang có tổ chức và do đó bị ảnh hưởng bởi các cân nhắc kinh tế chính trị thông thường. Cấu trúc tối ưu về mặt chính trị của một FTA song phương nhất định phụ thuộc vào lợi thế so sánh của hai quốc gia và sức mạnh chính trị cụ thể của các nhóm lợi ích khác nhau tại thời điểm thỏa thuận được ký kết.
Ví dụ, các nhà sản xuất EU trong một lĩnh vực nhất định có thể lo lắng về sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất Séc, chứ không phải các nhà sản xuất Ba Lan. Để bảo vệ mình khỏi sự cạnh tranh này sau khi có FTA, họ có thể vận động EU áp dụng ROO hạn chế để loại trừ sản phẩm gây lo ngại một cách hiệu quả. Do việc vận động hành lang như vậy rất tốn kém, các nhà sản xuất EU tập trung vào các sản phẩm bị đe dọa nhất. Vì các lợi ích đặc biệt thúc đẩy loại hình bảo hộ này khác nhau trong các mối quan hệ thương mại song phương, nên tự nhiên ROO sẽ khác nhau trong các hiệp định thương mại song phương.
Nền kinh tế chính trị của tích lũy song phương là khác nhau. Lấy ví dụ về các mối quan hệ song phương trung tâm mà EU đã ký kết với Hungary và Ba Lan trong những năm 1990. Giả sử ngành công nghiệp vải của EU cạnh tranh trực tiếp với các công ty vải Ba Lan và giả sử ngành công nghiệp EU giành được ROO của các nhà bảo hộ đối với vải, buộc tất cả áo sơ mi nhập khẩu miễn thuế vào thị trường EU phải được làm từ vải EU hoặc vải sản xuất trong nước. Khi tích lũy là song phương, ROO sẽ buộc các nhà sản xuất áo sơ mi Hungary chuyển từ mua vải của Ba Lan sang mua vải của EU để có được quy chế miễn thuế cho áo sơ mi của họ ở EU.
Theo cách này, khi ROO theo chủ nghĩa bảo hộ được kết hợp với tích lũy song phương, kết quả là lợi nhuận cao hơn cho các nhà sản xuất hàng hóa trung gian có trụ sở tại EU (trong trường hợp này là các nhà sản xuất vải). Tích lũy song phương cộng với ROO hoạt động giống như thuế quan của Hungary đối với vải Ba Lan – một loại thuế cung cấp cho các nhà sản xuất EU lợi thế trên thị trường Hungary. Ngược lại, tích lũy theo đường chéo – cho phép các nhà sản xuất áo sơ mi Hungary sử dụng vải Ba Lan để đáp ứng ROO – sẽ không chuyển doanh số bán hàng sang các nhà sản xuất vải ở EU. Điểm chính là ROO giống nhau có thể thúc đẩy lợi nhuận của các nhà sản xuất vải ở EU cao hơn nhiều khi nó được kết hợp với tích lũy song phương. Tất nhiên, sự tích lũy song phương gây hại cho các nhà sản xuất vải Ba Lan, nhưng họ có ít đòn bẩy kinh tế chính trị trong các cuộc đàm phán FTA EU-Hungary. Tóm lại, chuyển đổi nguồn cung là động lực thúc đẩy các khía cạnh tích lũy song phương của tô mì spaghetti.
Người dịch: Tào Thị Huệ
Lược dịch từ:
Richard Baldwin, 2013, Lessons from the European Spaghetti Bowl, ADBI Working Paper 418. Tokyo: Asian Development Bank Institute, https://www.adb.org/sites/default/files/publication/156273/adbi-wp418.pdf, truy cập ngày 5/7/2021